Kết thúc phần 1. Phần 2 tiếp tục đề cập đến Bảng kê các triều Vua tự tạo thiên lập địa từ năm 1000 đến năm 1802. Thông qua những ghi chép cụ thể này, chúng ta có thể xác định thời gian trị vị của các vua Chăm xưa xưa.

Bảng kê các triều Vua tự tạo thiên lập địa

Bảng kê các triều Vua tự tạo thiên lập địa
Bảng kê các triều Vua tự tạo thiên lập địa

Vua tại SRI BA-NƯI

  1. Pô Âu-loah hay Ol-loh, 1000-1036.
  2. Pô Nơ-thuôr-lăk, 1036-1076.
  3. Pô Pa-tik, 1076-1114.
  4. Pô Su-li-ka, 1114-1151.

Vua tại BĂL HI-NGÂU

5. Pô Klong Garai, 1151-1205.

6. Pô Sri A-La-rang, 1205-1247.

7. Vua tại BĂL A-NGUI

8. Chây A-nưk, 1247-1281.

9. Pô Đê-ba-ta Thuôr, 1281 – 1306.

10. Pô Pa-tăl Thuôr, 1306 – 1328.

11. Pô Binh Thuôr, 1328 – 1373.

12. Pô Pa-ri Chanh, 1373 – 1397.

Các lãnh chúa tại BAT-THI-NƯNG

13. Pô Ka-Thit, 1433 – 1460.

14. Pô Ku-Brah, 1460 – 1494.

15. Pô Ka-Bih, 1494 – 1530.

16. Pô Ka-rut-drăk, 1530 – 1536.

17. Pô Mưng Hê su-răk, 1536 – 1541.

18. Pô Ra-nư-rai, 1541 – 1553.

19. Pô At, 1553 – 1579.

Các lãnh chúa tại Pa-Rang

20. Pô Klong H’lâu, 1579 –  1603.

21. Pô Nit, 1603 – 1613.

22. Pô Jai Pa-rang, 1613 – 1618.

23. Pô Êh-khang, 1618 – 1622.

24. Pô Mưh Ta-ha, 1622 – 1627.

25. Pô Rômê, 1627 – 1651.

  • Giai đoạn loạn lạc (1651 – 1652).

26. Pô Nrop, 1652 – 1653.

  • Giai đoạn không có vua: 1653 – 1654

Các vua được tấn phong

27. Pô Phik-ti-rai đa đa-phủh, 1654 – 1657.

28. Pô Ja-ta-mưh, 1657 – 1659.

  • Giai đoạn không có Vua: 1659 – 1660.

29. Pô Thot, 1660- 1692.

  • Giai đoạn không có Vua: 1692 – 1695.

30. Pô Săk-ti-rai đa pa-tih, 1695 – 1728.

31. Pô Ga-nuh, 1728-1730.

32. Pô Thut-ti-rai, 1731 – 1732.

  • Giai đoạn không có Vua: 1732 – 1735.

Các chúa do triều đình Huế bổ nhậm

33. Pô Ra-ti-rai đa pa-tih, 1735 – 1763.

34. Pô Ta-thun đa mưh-rai, 1763 – 1765.

35. Pô Ta-thun đa pa-phủh 1763 – 1780.

36. Pô Ti-thun đa Pa-rang 1780 – 1781.

  • Giai đoạn không có Vua: 1781 – 1783.

37. Chây Krây Brây, 1783 – 1786.

  • Pô Ti-thun đa Pa-rang, 1786 – 1793.

38. Pô La-thuôn, 1793 – 1799.

39. Vua sau cùng: Pô Chơn-Chanh, 1799 – 1822.

Những lý giải thêm thêm về Bảng kê các triều vua tạo thiên lập địa trong Biên niên sử Hoàng gia Chàm

Những lý giải thêm thêm về Bảng kê các triều vua tạo thiên lập địa trong Biên niên sử Hoàng gia Chàm
Những lý giải thêm thêm về Bảng kê các triều vua tạo thiên lập địa trong Biên niên sử Hoàng gia Chàm

Đứng đầu bảng kê các Triều Vua kể trên là Pô Âu-loah hay Ol-loh đã từ cõi trên “giáng xuống” trị nước. Cụ thể, trong một bản cổ văn chép tay có nói:

“Hồi năm con Chuột, một nhân vật thực chất là Âu-loah đã nỗ lực làm đẹp Vương Quốc Chàm, nhưng vì đất nước bị tai họa dọa dẫm (long căm phẫn, Vua lại xa dân), vị này đã phú thác hồn và xác cho Trời và sang Mecca trong 37 năm rồi trở lại Vương Quốc sống như cọng cỏ.

Mecca là Thánh địa của người Hồi Giáo tại Arabie Séoudite nên người ta có lý do để suy đoán rằng danh hiệu Âu-loah hay Ol-loh kể trên có lẽ đã do chữ “Allah” của Ả Rập, thượng đế duy nhất mà mọi người Hồi Giáo tôn thờ”.

Biên niên sử “tính từ những Triều Vua khi lập địa, tạo nên A-Đăm” thủy tổ của loài người và bắt đầu từ Triều Vua Âu-loah, suy ra, đây có lẽ chỉ là một lối hành văn nhằm nhấn mạnh Triều Vua này tại một địa phương hoặc từ khi Vương Quốc Chàm bị thu hẹp lại còn ở Phan Rang và Phan Rí mà thôi, vì ai cũng rõ Vương Quốc Chàm đã được thiết lập từ thế kỷ đầu Tây Lịch những lãnh thổ chia thành nhiều khu vực đặt dưới quyền các lãnh chúa.

Sự đồng hóa Pô Âu-loah là Thượng đế với danh hiệu một vị Vua, có lẽ là do sự ngưỡng mộ quá độ của dân chúng chứng tỏ một thứ uy quyền bao la rộng của vị vua này trong Vương Quốc. Vả lại một số thần linh được người dân Chàm cúng bái hằng năm cho mãi đến ngày nay cũng chỉ là những vị Vua ngày trước đã có công với đất nước Chàm.

Nguồn: “Lược sử Dân tộc Chàm”, Bohamide & Dorohiem.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *